Môi trường pháp lý có vai trò quan trọng đối với hoạt động thanh toán quốc tế. Tuy nhiên để có thế thấy rõ vai trò của môi trường pháp lý đối với hoạt động thanh toán quốc tế, cần phải làm rõ khái niệm về môi trường pháp lý, về hoạt động thanh toán quốc tế và trên cơ sở đó phân tích vai trò của môi trường pháp lý đối với hoạt động thanh toán quốc tế. Đó cũng là ba nội dung cơ bản của bài viết này.
- Khái niệm và đặc điểm của hoạt động thanh toán quốc tế
Cho đến nay, khái niệm về hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) vẫn là vấn để còn bỏ ngỏ, chưa có nhiều tác giả đi sâu phân tích để đi đến sự thống nhất về khái niệm này.
Giáo sư Đinh Xuân Trình, trong Giáo trình Thanh toán Quốc tế, không đưa ra khái niệm về hoạt động TTQT mà đưa ra khái niệm về TTQT:“Thanh toán quốc tế là tổng hợp các yếu tố cấu thành cơ chế thanh toán giữa các quốc gia như quy định về chủ thể tham gia thanh toán, lựa chọn tiền tệ, các công cụ và các phương thức đòi và hoặc chi trả tiền tệ” và “Tổng hợp các yếu tố cấu thành cơ chế đó tạo thành thanh toán quốc tế giữa các quốc gia”(Đinh Xuân Trình, 2006, tr.11). Tác giả Nguyễn Văn Tiến, trong cuốn sách Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, cũng không nêu ra khái niệm về hoạt động TTQT mà nêu khái niệm về TTQT, theo đó “Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan” (Nguyễn Văn Tiến, 2005, tr.100). Về mặt pháp lý, Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không đưa ra khái niệm về hoạt động TTQT mà đưa ra khái niệm về hoạt động thanh toán, theo đó “Hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán” (Điều 3 khoản 1 của Nghị định). Nghị định này cũng quy định rằng nó được áp dụng cho các hoạt động TTQT.
Trên cơ sở phân tích một số quan điểm nêu trên về khái niệm TTQT người viết cho rằng có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm hoạt động TTQT nhưng cách tiếp cận đúng đắn nhất là cách tiếp cận nhấn mạnh vào yếu tố quốc tế của hoạt động này, từ cả góc độ vĩ mô và góc độ vi mô. Từ góc độ vĩ mô, hoạt động TTQT liên quan đến ít nhất là hai quốc gia với nhau và từ góc độ vi mô, hoạt động TTQT liên quan đến các doanh nghiệp, các ngân hàng của các nước khác nhau với nhau khi họ tham gia vào các quan hệ TTQT. Về nội dung, hoạt động TTQT là những hoạt động liên quan đến việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các ngân hàng thương mại ở các nước khác nhau. Ngoài ra, nói đến hoạt động TTQT là nói đến ngoại tệ vì tiền tệ thanh toán phần lớn là ngoại tệ tự do chuyển đổi và nói đến mối quan hệ giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng của một nước với các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng nước ngoài khi tham gia hoạt động TTQT.
Từ những phân tích ở trên, có thể nêu khái niệm về hoạt động TTQT như sau: Hoạt động TTQT là những hoạt động thanh toán có yếu tố quốc tế liên quan đến các quốc gia
khác nhau, các DN và ngân hàng ở các nước khác nhau với nhau xung quanh việc mở tài khoản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia vào hệ thống thanh toán liên quan đến các hoạt động XNK hàng hóa và dịch trong thương mại quốc tế. Đây là cách hiểu rộng, có tính bao quát về hoạt động TTQT nhưng nhấn mạnh vào yếu tố quốc tế của hoạt động TTQT và do đó yếu tố quốc tế cũng chính là đặc điểm của hoạt động TTQT.
So với hoạt động thanh toán trong nước, hoạt động TTQT có các đặc điểm dưới đây:
-Đặc điểm về các bên tham gia. Nhà nước tham gia vào hoạt động thanh toán nằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Chức năng quản lý nhà nước thường thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật về TTQT theo thẩm quyền nhằm tạo lập môi trường pháp lý phù hợp cho hoạt động TTQT phát triển; cấp phép, đình chỉ hoạt động thanh toán đốivới các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác; nghiên cứu, đề xuất chính sách mở rộng và phát triển TTQT không dùng tiền mặt; kiểm tra, thanh tra và xử lý theo thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức cung ứng dịch vụ TTQT và người sửdụng dịch vụ TTQT.Trong hoạt động TTQT, chức năng quản lý nhà nước có đặc điểm là chức năng này liên quan đến ít nhất là hai Nhà nước. Vì vậyđể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động TTQT, các quốc gia phải có sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc xây dựng môi trường pháp lý phù hợp cho hoạt động TTQT phát triển ở phạm vi từng nước cũng như ở phạm vi quốc tế. Như vậy, vai trò và chức năng của các Nhà nước khi tham gia vào hoạt động TTQT sẽ phức tạp hơn, nặng nề hơn so với chức năng quản lý hoạt động thanh toán nội địa. Các doanh nghiệp (DN) tham gia vào hoạt động TTQT là những DN có nhu cầu mở tài khoản để thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo các giao dịch hoặc theo hợp đồng thương mại quốc tế.Tuy nhiên, trong hoạt động TTQT, nghĩa vụ trả tiền thường phát sinh từ việc thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và theo quy định của pháp luật quốc tế[2] cũng như pháp luật quốc gia[3], chủ thể của các hợp đồng này phải là các thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đáp ứng các yêu cầu để được ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ quốc tế, do đó, trong thực tế, các bên có nhu cầu mở tài khoản để trả tiền cho đối tác nước ngoài là các DN XNK. Ngân hàng thương mại là tổ chức được cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. Ví dụ ở Việt Nam, tổ chức được quyền cung cấp dịch vụ thanh toán là Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng, tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán[4]. Theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng năm 2010, chỉ những tổ chức nào được quyền thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng thì mới có chức năng cung cấp dịch vụ thanh toán. Riêng với hoạt động TTQT ở Việt Nam, Điều 7 khoản 3 của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 khẳng định rằng“Mọi giao dịch thanh toán và chuyển tiền liên quan đến XNK hàng hóa và dịch vụ phải thực hiện thông qua tổ chức tín dụng được phép”. Điều này có nghĩa là ở Việt Nam, chỉ có các ngân hàng thương mại mới được tham gia vào hoạt động TTQT.
-Đặc điểm về nội dung của hoạt động TTQT. Hoạt động TTQT có nội dung rất rộng, bao gồm việc mở tài khoản ngoại tệ, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các NHTM của các nước khác nhau và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán của các DN XNK ở các nước khác nhau. Nói cách khác, hoạt động TTQT bao gồm nhiều khâu và liên quan đến tất cả các bên tham gia như Chính phủ các nước,DN các nước, ngân hàng các nước, còn dịch vụ TTQT chủ yếu liên quan đến DN XNK và ngân hàng các nước khi các DN XNK ở nước này phải thực hiện việc trả tiền cho DN ở nước khác. Dù hiểu theo cách nào thì điều quan trọng mà các bên tham gia vào hoạt động TTQT phải chú ý là sẽ dùng đồng tiền nào làm đồng tiền thanh toán trong hoạt động TTQT.
-Đặc điểm về đồng tiền thanh toán.Đồng tiền thanh toán trong hoạt động TTQT là đơn vị tiền tệ được sử dụng để thanh toán công nợ phát sinh từ các hoạt động thương mại quốc tế hoặc thanh toán tiền hàng hóa và dịch vụ theo quy định của hợp đồng XNK trong đó việc thanh toán tiền hàng từ hợp đồng XNK chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động TTQT. Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng XNK có thể là đồng tiền nội tệ của nước mình hoặc đồng nội tệ của nước bạn hàng. Với các nước đang phát triển như Việt Nam, là những nước có đồng nội tệ chưa được tự do chuyển đổi, đồng tiền thanh toán trong hoạt động TTQT và theo quy định trong các hợp đồng XNK thường là ngoại tệ. Tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên hoặc theo tập quán buôn bán trong thương mại quốc tế, đồng tiền ngoại tệ dùng để thanh toán cho các giao dịch TMQT là đồng USD, EURO, GBP… Vì vậy, các DN có liên quan thường phải chú ý nghiên cứu các quy định của Nhà nước về tỷ giá hối đoái, về chính sách tiền tệ, về sự ổn định hay biến động của đồng ngoại tệ để cân nhắc nên sử dụng đồng tiền thanh toán trong hoạt động TTQT của mình.
2. Môi trường pháp lý và các yếu tố cấu thành môi trường pháp lý của hoạt động thanh toán quốc tế
Khái niệm về môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế chưa được phân tích nhiều trong các sách báo và công trình nghiên cứu. Có chăng là khái niệm về môi trường. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (do NXB Đà Nẵng phát hành năm 1997) “môi trường là nơi xảy ra một hiện tượng hoặc diễn ra một quá trình trong mối quan hệ với hiện tượng, quá trình ấy” (Từ điển Tiếng Việt, 1997, tr.618). Khái niệm này nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa hiện tượng, sự vật với môi trường, tức là nơi phát sinh ra chúng. Từ điển Tiếng Việt (Tường giải và liên tưởng) cho rằng môi trường là khái niệm bao gồm hai nội dung trong đó nội dung thứ nhất chỉ “Toàn thể hoàn cảnh tự nhiên tạo thành những điều kiện sống bên ngoài của một sinh vật” và nội dung thứ hai chỉ “ Toàn thể hoàn cảnh xã hội (phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa, nghề nghiệp, gia đình…) chung quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống và sự phát triển của con người” (Từ điển Tiếng Việt, 1999, tr.529). Khái niệm này nhìn nhận môi trường từ hai góc độ là môi trường tự nhiên của một sinh vật và môi trường xã hội của con người. Mặc dù có cách nhìn nhận khác nhau nhưng những quan điểm nêu trên có điểm chung là đã xem xét khái niệm về môi trường như là tổng hòa các yếu tố về tự nhiên và xã hội ở xung quanh con người và có tác động đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của cả xã hội loài người nói chung và của con người nói riêng. Tác giả Nguyễn Thị Mơ, trong công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ[5] có tên gọi “ Môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp” đã đưa ra khái niệm về môi trường pháp lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo đó cho rằng “Môi trường pháp lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ là tổng hòa các yếu tố pháp lý tác động, ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại, phát triển và tiêu vong của doanh nghiệp vừa và nhỏ” (Nguyễn Thị Mơ, 1997, tr.16).
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu môi trường pháp lý của hoạt động TTQT là môi trường xã hội, nơi có sự hiện diện và sự tác động của pháp luật nói chung và của các yếu tố pháp lý có liên quan đến hoạt động. Một cách đầy đủ hơn, môi trường pháp lý của hoạt động TTQT là tất các yếu tố pháp lý tác động đến quan hệ của các chủ thể pháp luật khi các chủ thể này tham gia vào hoạt động TTQT. Môi trường pháp lý của hoạt động TTQT được cấu thành bởi ít nhất là 02 yếu tố cơ bản dưới đây:
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động TTQT là yếu tố đầu tiên cấu thành môi trường pháp lý của hoạt động TTQT. Điều này có nghĩa làhoạt động TTQT cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nói cách khác, khi tham gia vào hoạt động TTQT, các bên tham gia phải thực hiện đúng quy định của pháp luật, ví dụ như quy định về vai trò và chức năng của Nhà nước trong việc xây dựng chính sách về tỷ giá, về kiểm tra, giám sát hoạt động TTQT; quy định về điều kiện để DN được mở tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ tại ngân hàng, điều kiện để DN được mua ngoại tệ để chi trả tiền cho khách hàng nước ngoài, điều kiện để NH được cung cấp dịch vụ TTQT và chuyển tiền ra nước ngoài…Khác với hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán trong nước, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động TTQT phức tạp hơn vì nó không chỉ bao gồm luật của một nước mà bao gồm luật của ít nhất là hai nước (nước XK và nước NK), luật quốc tế (các hiệp định về thanh toán quốc tế có liên quan…) và các tập quán quốc tế hình thành và được thừa nhận rộng rãi trong thực tiễn của hoạt động TTQT.
Cơ chế bảo đảm để các quy định của pháp luật về hoạt động TTQT được thi hành nghiêm minh là yếu tố thứ hai cấu thành môi trường pháp lý của hoạt động TTQT. Khi nói đến cơ chế bảo đảm để các quy định của pháp luật về hoạt động TTQT được thi hành nghiêm minh là nói đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp và các chế tài được áp dụng khi có những vi phạm pháp luật về hoạt động TTQT. Như đã phân tích ở trên, vì hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động TTQT bao gồm cả điều ước quốc tế, luật quốc gia và tập quán quốc tế, do đó cơ chế bảo đảm để các quy định của pháp luật về hoạt động TTQT được thi hành nghiêm minh được quy định cả trong luật quốc tế, trong luật quốc gia và trong các tập quán quốc tế liên quan đến hoạt động TTQT.
3. Vai trò của môi trường pháp lý đối với hoạt độngthanh toán quốc tế.
3.1. Môi trường pháp lý, thông qua hệ thống pháp, có vai trò tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt động thanh toán quốc tế phát triển
-Pháp luật xác định địa vị pháp lý của các chủ thể là các doanh nghiệp và các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường khi họ tham gia vào hoạt động TTQT. Địa vị pháp lý của các chủ thể là DN khi họ tham gia vào hoạt động TTQT liên quan đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chính DN khi tham gia vào hoạt động này. Ví dụ, hợp đồng XNK hàng hóa đã ký giữa một DN Việt Nam với một DN của Hoa Kỳ, theo đó quy định bên mua là DN Việt Nam sẽ phải trả tiền hàng cho bên bán là DN Hoa Kỳ bằng phương thức tín dụng chứng từ (L/C) và đồng tiền thanh toán là đồng USD. Trong ví dụ này có sự tham gia của hai DN XNK ở hai nước khác nhau và đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với DN Việt Nam. DN nhập khẩu Việt Nam muốn thanh toán tiền hàng cho DN xuất khẩu Hoa Kỳ thì phải nghiên cứu các quy định của Việt Nam về chính sách tỷ giá, về việc chuyển tiền ra nước ngoài và đặc biệt phải lựa chọn một ngân hàng có uy tín để mở L/C. Ngoài ra, việc mua và nhận USD, việc mở tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ, việc chi trả cho người bán nước ngoài và thậm chí cả việc nhận tiền hàng bằng ngoại tệ … đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật quốc gia (nước người bán và nước người mua), của pháp luật quốc tế … nếu có. Nếu vi phạm quy định này thì các DN sẽ phải chịu trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Ví dụ, theo quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005, các DN Việt Nam được phép mua ngoại tệ để thanh toán NK hàng hóa và dịch vụ nhưng chỉ được mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép và phải chuyển toàn bộ ngoại tệ có được từ việc XK hàng hóa và dịch vụ vào tài khoản ngoại tệ mở tại các tổ chức tín dụng được phép ở Việt Nam. Về mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, Điều 23 quy định rằng các DN Việt Nam có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc có nhu cầu mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng với bên nước ngoài phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép…Và Điều 43 quy định rất rõ rằng tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm các quy định của Pháp lệnh này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều 10 Luật các Tổ chức Tín dụng năm 2010 của Việt Nam (Luật TCTD) quy định rằng các ngân hàng cung cấp dịch vụ TTQT phải có nghĩa vụ từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp nhận của khách hàng. Điều 11 quy định rõ rằng các tổ chức tín dụng, chi nhành ngân hàng nước ngoài phải có trách nhiệm xây dựng quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố; không được che dấu hoạt động kinh doanh liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp; không đượcthực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và phải hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố…
- Pháp luật thừa nhận giá trị của các tập quán quốc tế và cho phép áp dụng luật nước ngoài trong hoạt động TTQT. Hoạt động TTQT có thể chịu sự điều chỉnh và tác động của pháp luật nhiều nước và của cả tập quán quốc tế. Do vậy, điều quan trọng là pháp luật quốc gia của mỗi nước phải thừa nhận giá trị pháp lý của các tập quán quốc tế trong TTQT cũng như cho phép các DN, NH nước mình được quyền áp dụng luật nước ngoài khi cần thiết. Trong thực tiễn TTQT, pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận giá trị pháp lý của các tập quán về TTQT như UCP 600 hay URC 522…và cho phép các bên được quyền chọn luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp về TTQT nếu các bên chấp nhận luật nước ngoài hay các tập quán quốc tế đó.Ví dụ, Điều 3 Luật TCTD năm 2010 cho phép các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyềnthỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, gồm Tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành và Tập quán thương mại khác không trái với pháp luật của Việt Nam[6]. Tương tự như vậy, Điều 5.2 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định:“Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Những phân tích ở trên cho thấy vai trò của môi trường pháp lý thể hiện ở chính vai
tròtạo lập cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt động thanh toán quốc tế phát triển.
3.2. Vai trò của môi trường pháp lý đối với hoạt động thanh toán quốc tế thể hiện thông qua cơ chế bảo đảm để các quy định của pháp luật được thi hành nghiêm minh
-Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động TTQT được thành lập và hoạt động đã
góp phần tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động TTQT. Để hướng dẫn các bên tham gia vào hoạt động TTQT thực hiện các hoạt động này theo đúng pháp luật, các nước thường thành lập cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Cơ quan này ở Hoa Kỳ là Cục dự trữ Liên Bang Mỹ, ở EU là Ngân hàng EU… Hoạt động của các cơ quan này đều được luật hóa một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng. Ví dụ ở Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động TTQT bao gồm Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, Bộ, các cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp. Điều 158 LTCTD năm 2010 quy định:1). Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng trong phạm vi cả nước; 2). Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước vềtổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 3). Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật; 4). Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại địa phương theo quy định của pháp luật.Điều 157 quy định rằng, trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Ngân hàng Nhà nước có quyền phong tỏa một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Điều 146 quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nướctrong việc kiểm tra, phát hiện kịp thời những trường hợp có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán và khi phát hiện những trường hợp có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán thì Ngân hàng Nhà nướcphải đặt các ngân hàng này dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước…Những quy định nêu trên không chỉ góp phận tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh cho sự phát triển của các hoạt động TTQT mà còn tạo lập cơ chếbảo đảm để pháp luật về hoạt động TTQT được thi hành nghiêm minh
- Sự đa dạng hóa các hình thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng trong việc tạo cơ sở để các bên được tự do lựa chọn hình thức phù hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh. Tranh chấp về thực hiện các phương thức và quy trình TTQT là tranh chấp mang tính thương mại. Các bên trong tranh chấp là các DN XNK và các ngân hàng thương mại, do đó, theo quy định của pháp luật, một khi tranh chấp về hoạt động TTQT phát sinh, các bên có thể lựa chọn các phương thức như thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài để giải quyết tranh chấp. Ví dụ, Điều 317 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định các hình thức giải quyết tranh chấp: “1.Thương lượng giữa các bên; 2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chon làm trung gian hòa giải; 3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định”. Mỗi một hình thức giải quyết nêu ở trên đều phải tuân theo thủ tục, quy trình do pháp luật quy định hoặc do các bên tự thỏa thuận quy định với nhau và mỗi hình thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu nhược điểm nhất định mà các bên tranh chấp phải nghiên cứu kỹ trước khi lụa chọn hình thức giải quyết phù hợp với mình.
Những phân tích ở trên cho thấy sự đa dạng hóa trong các hình thức giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động TTQT có vai trò quan trọng trong việc giúp các bên tham gia vào hoạt động TTQT được tự do lựa chọn hình thức phù hợp để giải quyết tranh chấp về hoạt động TTQT.
- Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động thanh toán quốc tế được pháp luật quy định cụ thể đã góp phần ngăn ngừa và hạn chế hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật quy định một hệ thống các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động TTQT. Có 3 nhóm chế tài là chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự. Điều này được quy định tại Điều 321 Luật Thương mại năm 2005:“1. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, tổ chức, cá nhân bị xử lý theo một trong các hình thức sau đây: a). Xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; b). Trường hợp hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 2. Trường hợp hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.” Đối với ngân hàng, chế tài hành chính được áp dụng khi ngân hàng vi phạm hành chính trong hoạt động TTQT, ví dụ như thu hồi giấy phép hoạt động của ngân hàng khi ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về dự trữ bắt buộc, tỷ lệ bảo đảm antoàn trong hoạt động[7];Đặt ngân hàng dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhànước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán[8]; Trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Ngân hàng Nhà nước phong tỏa một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài…Khi có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng liên quan đến hoạt động TTQT dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho bên bị vi phạm, bên bị vi phạm có thể áp dụng các chế tài dân sự như: chế tài phạt vi phạm hợp đồng, chế tài đòi bồi thường thiệt hại, chế tài hủy hợp đồng…[9]
Bằng việc ấn định chế độ trách nhiệm về hành chính, về dân sự và về hình sự với các chế tại cụ thể được áp dụng trong lĩnh vực hành chính, dân sự và hình sự, pháp luật đã tạo lập một môi trường pháp lý tích cực cho hoạt động TTQT. Điều này không chỉ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các DN, các ngânh hàng thương mại tham gia vào hoạt động TTQT mà còn hạn chế và giảm thiểu tình trạng vi phạm hợp đồng liên quan đến hoạt động TTQT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Mơ (2000). Môi trường pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện. Đề tài NCKH cấp bộ (Bộ Thương mại), mã số B96-23-02;
2. Nguyễn Văn Tiến (2005). Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương. NXB Thống kê;
3. Đinh Xuân Trình (2006). Giáo trình Thanh toán quốc tế. NXB Lao động-Xã hội;
4. Luật Thương mại năm 2005;
5. Luật các Tổ chức Tín dụng năm 2010.
Thạc sĩ Đỗ Viết Anh Thái
Tạp chi KTĐN số 62