Khái niệm hợp đồng xuất khẩu là gì?. Trong hợp đồng mua bán nói chung, luôn luôn có ít nhất hai chủ thể, đó là người mua và người bán. Theo khoản 8 Điều 3 của luật Thương mại năm 2005 thì “mua bán hàng hoá” là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận.
Cũng theo Điều 28 của luật Thương mại 2005 thì: “xuất khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Còn “nhập khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật.
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Ngoài hợp đồng này còn có thêm yếu tố quốc tế – là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia nên nó còn phải thoả mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi hỏi. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hoá có yếu tố quốc tế như sau:
Theo Điều 1 – Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau”.
Theo Điều 1 – Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Như vậy, có thể thấy những biểu hiện chủ yếu của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là:
- Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau;
- Hàng hoá – đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc giai đoạn chào hàng và chấp thuận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác nhau;
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền sở hữu và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
- Luật Điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các Điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng hải.